Viet-Nam-Energy-Partnership-Group

Nhóm Đối tác Năng lượng Việt Nam
Cùng nhau Thực hiện Chuyển dịch Năng lượng Bền vững tại Việt Nam!

Hội thảo trao đổi kỹ thuật: Đánh giá các kịch bản đưa nhiệt điện than tại Việt Nam về mức phát thải ròng khí nhà kính bằng “0” vào năm 2050

Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc UNDP kết hợp với Viện Năng lượng Việt Nam (IOE) đã thực hiện một nghiên cứu đánh giá các kịch bản chuyển đổi năng lượng của các nhà máy nhiệt điện than ở Việt Nam, tập trung vào các nhà máy Phả Lại 2 (2x300MW), Cao Ngạn (115MW) và Vân Phong 1 (2×660 MW), xem xét chi phí và lợi ích có thể phát sinh từ quá trình chuyển đổi này. Nghiên cứu này dự kiến sẽ giúp xây dựng các đề xuất khả thi về mặt tài chính cho việc ngừng hoạt động, thay đổi mục đích và/hoặc cải tổ lại các nhà máy này. Đây là những kết quả tương đối sơ bộ được nhấn mạnh từ Viện Năng lượng và từ ban quản lý ba nhà máy điện trên. Ngoài ba nghiên cứu điển hình này, Ngân hàng Thế giới đã trình bày một nghiên cứu điển hình về các phương án tái sử dụng cho nhà máy nhiệt điện than Ninh Bình (4×25 MW).

Nhằm chia sẻ và tham vấn ý kiến về các kết quả nghiên cứu, UNDP và Viện Năng lượng đã tổ chức một cuộc họp kỹ thuật về Đánh giá các kịch bản đưa nhiệt điện than ở Việt Nam đạt mức phát thải khí nhà kính bằng 0 vào năm 2050. Mục tiêu của cuộc họp kỹ thuật này là cung cấp thông tin cập nhật về quá trình chuyển đổi các nhà máy nhiệt điện than, kinh nghiệm quốc tế về Công nghệ tốt nhất hiện có (BAT), chi phí, lợi ích và tác động tiềm ẩn của quá trình chuyển đổi. Hội nghị cũng sẽ thảo luận về các phương án khác nhau để ngừng hoạt động, tái sử dụng và chuyển đổi các nhà máy nhiệt điện than khác nhau, sau đó là các cơ hội tài trợ từ nhiều đơn vị khác nhau, bao gồm việc thực hiện Kế hoạch huy động tài nguyên JETP và vận hành thị trường carbon tự nguyện.

Đại biểu tham dự tại cuộc họp bao gồm các bên liên quan từ nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có các cơ quan chính phủ, thành viên của Nhóm Đối tác Quốc tế (IPG) và GFANZ, các nhà máy nhiệt điện than, tổ chức tài chính, ngân hàng, nhà đầu tư, đối tác phát triển và tổ chức phi chính phủ, để thảo luận về kết quả của các nghiên cứu trên.

Phát biểu tại phiên họp, bà Bà Ramla Khalidi, Đại diện thường trú UNDP Việt Nam khẳng định “Sự phụ thuộc của chúng ta vào sản xuất điện than đặt ra những quan ngại đáng kể cho sự phát triển bền vững và an ninh năng lượng. Việc loại bỏ dần dần năng lượng than là cần thiết chứ không phải là một lựa chọn để giảm lượng khí thải carbon cho nền kinh tế Việt Nam và đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0.” Để làm được điều này, bà Ramla nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phối hợp giữa các bên nhằm giảm thiểu thách thức và sự cần thiết của một quá trình chuyển đổi công bằng và toàn diện.

Đây là một trong những chủ đề cấp thiết về kế hoạch triển khai PDP8 và JETP RMP đang được tranh luận gay gắt trong những tháng gần đây. Việt Nam đã trải qua tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong một phần tư thế kỷ qua, chủ yếu dựa vào nhiên liệu hóa thạch. Than vẫn là nhiên liệu chính để sản xuất năng lượng trong nước, chiếm một nửa nguồn cung cấp điện. Sự phụ thuộc vào sản xuất điện đốt than đặt ra những thách thức đáng kể cho quá trình khử cacbon trong ngành năng lượng của Việt Nam. Để thực hiện được mục tiêu toàn cầu do Thỏa thuận Paris đặt ra, nhiệm vụ quan trọng của Việt Nam lúc này là phải tìm ra các con đường dẫn tới đạt mức phát thải ròng bằng 0. Hội nghị kỹ thuật này đã thu hút sự chú ý với sự tham gia của nhiều khu vực tư nhân, các đối tác phát triển, các nhóm nghiên cứu kỹ thuật cũng như cán bộ quản lý và nhân viên của các nhà máy nhiệt điện than đang được nghiên cứu.

Nghiên cứu đã đưa ra các lộ trình chuyển đổi khả thi cho các nhà máy nhiệt điện than lớn của Việt Nam, cụ thể là Nhà máy Phả Lại, Cao Ngạn và Vân Phong, đánh giá các tác động, chi phí và lợi ích tiềm tàng của các phương án chuyển đổi năng lượng khác nhau. Các chiến lược như đồng đốt sinh khối, chuyển đổi sang điện khí LNG và tích hợp các nguồn tài nguyên tái tạo đã được đánh giá cùng với các công nghệ tiên tiến như Hệ thống lưu trữ năng lượng bằng pin (BESS) và Thu hồi, sử dụng và lưu trữ carbon (CCUS).

Tại cuộc họp, các đại biểu cũng đã thảo luận về các thông lệ quốc tế tốt nhất, tiến bộ công nghệ và mô hình tài chính để hỗ trợ quá trình chuyển đổi năng lượng của Việt Nam. Trong đó:

  • Nhà máy Phả Lại 2, công suất 600MW, vận hành 23 năm cũng được yêu cầu chuyển đổi. Một số lộ trình được xem xét cho Phải Lại 2 bao gồm đồng đốt NH3 hoặc tua bin khí linh hoạt, hoặc BESS kết hợp với tua bin khí linh hoạt và điện mặt trời, hoặc BESS kết hợp tua bin khí và SynCON. Những chiến lược này không chỉ có lợi cho môi trường bằng cách giảm đáng kể lượng phát thải khí nhà kính mà còn rất quan trọng để tăng cường an ninh năng lượng và tính bền vững của ngành.
  • Nhà máy Cao Ngạn nằm ở vị trí trung tâm thành phố Thái Nguyên nên yêu cầu tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường chặt chẽ. Nghiên cứu nhấn mạnh đến khả năng tích hợp của nhà máy với các nguồn năng lượng tái tạo. Nghiên cứu cũng chỉ ra tiềm năng kết hợp với năng lượng mặt trời và năng lượng gió vào hệ thống phát điện hiện có, được tăng cường nhờ các công nghệ Hệ thống lưu trữ năng lượng pin (BESS) và Công nghệ thu hồi, sử dụng và lưu trữ carbon (CCUS) tiên tiến. Cách tiếp cận này có thể là một mô hình để cân bằng giữa sản xuất năng lượng với bảo vệ môi trường.
  • Đối với Nhà máy nhiệt điện than BOT Vân Phong 1, nhà máy mới và lớn nhất có vị trị thuận lợi cho việc tích hợp điện mặt trời, đồng đốt sinh khối. Nghiên cứu phân tích sâu vào các phương án chuyển đổi khác nhau, bao gồm việc tiên phong sử dụng năng lượng hạt nhân quy mô nhỏ và tái sử dụng nhà máy để phù hợp với các công nghệ mới nổi. Vị trí nhà máy nằm gần hồ chứa dầu Phú Khánh, có thể sử dụng làm nơi lưu trữ CO2 cũng Các biện pháp mang tính chuyển đổi này phù hợp với mục tiêu giảm phát thải của Việt Nam và hứa hẹn tiếp thêm sinh lực cho nền kinh tế địa phương cũng như thúc đẩy đổi mới công nghệ. Tuy nhiên với bất kỳ giải pháp nào được đề xuất, các vấn đề pháp lý sẽ phát sinh liên quan đến hợp đồng BOT cần phải được đàm phán lại.

Ngoài các nghiên cứu kỹ thuật sơ bộ này, các đại biểu đã tham gia trao đổi tích cực về về Công nghệ quốc tế tốt nhất hiện có để chuyển đổi than như:

1) Bổ sung các bộ phận loại bỏ CO2 cho các nhà máy điện than hiện tại

2) Nâng cấp lại nồi hơi để giảm lượng khí thải CO2 hoặc tăng cường khả năng đốt đồng thời

3) Nâng cấp CFPP cho các chế độ vận hành khác nhau như máy ngưng tụ đồng bộ cung cấp dịch vụ an ninh hệ thống điện

4) Cái tiến các nhà máy điện than và trạm biến áp máy phát điện liên quan để sử dụng các công nghệ thay thế như PV, hệ thống năng lượng lưu trữ pin (BESS), gió (sử dụng vị trí làm điểm kết nối) hoặc các lò phản ứng hạt nhân mô-đun nhỏ ( SMNR)

5) Triển khai các công nghệ xanh đang được quan tâm như hydro xanh, amoniac, metanol, v.v. có thể được triển khai độc lập hoặc đốt chung trong các nồi hơi đã được cải tiến

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam:

Theo PDP8, Việt Nam hiện đang vận hành khoảng 20GW các nhà máy than, với dự đoán sẽ tăng lên 30GW vào năm 2030. Do đó, một số lượng đáng kể các nhà máy than sẽ cần chuyển mục đích sử dụng sang các công nghệ thay thế trong những năm tới. Những vấn đề chính mà Việt Nam cần xem xét bao gồm:

  • Chuyển đổi sang máy ngưng đồng bộ và BESS giúp điều khiển hệ thống điện các nhà máy điện than (Phả Lại, Hải Dương, Đồng Nai, Long An,..) gần các trung tâm phụ tải (Hà Nội, Hồ Chí Minh)
  • Chuyển đổi sang năng lượng mặt trời và BESS cho các nhà máy điện than miền Nam có bức xạ mặt trời cao
  • Tìm hiểu việc chuyển đổi CFPP gần bờ biển có thể hỗ trợ các điểm kết nối trang trại điện gió ngoài khơi trong tương lai hay không
  • Chuyển đổi sang năng lượng sinh khối và kết hợp với CCUS để duy trì nguồn năng lượng ổn định với các nhà máy than gần các trung tâm khai thác (Cao Ngạn, Na Dương, Quảng Ninh, Cẩm Phả,…)

Trưởng đại diện UNDP cũng lưu ý đến chi tiết một số lượng lớn công nhân lao động trực tiếp hoặc gián tiếp trong các hoạt động khai thác than, vận tải và sản xuất điện, đặc biệt là ở các vùng sâu vùng xa, có thể bị ảnh hưởng bởi việc ngừng sử dụng than. “Điều quan trọng là phải cung cấp các hỗ trợ về đào tạo lại và tái đào tạo kỹ năng cho những người lao động và cộng đồng bị ảnh hưởng, đồng thời cần thiết để đảm bảo sự tham gia của họ và hưởng lợi từ quá trình chuyển đổi này”, bà Ramla Khalidi nói.

Khi Việt Nam hướng tới đạt được mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, kết quả của cuộc họp kỹ thuật này được kỳ vọng sẽ góp phần đáng kể vào việc hình thành lộ trình chuyển đổi năng lượng công bằng và bình đẳng ở Việt Nam và xa hơn thế nữa.

Tài liệu phiên họp tham khảo TẠI ĐÂY

Nguồn tham khảo: 

 VOV.VN: https://vov.vn/xa-hoi/undp-thao-luan-bien-phap-dua-muc-phat-thai-rong-khi-nha-kinh-ve-0-post1085537.vov